NGŨ GIA BÌ CÙNG TANG KÝ SINH (TẦM GỬI CÂY DÂU)
* Tác dụng chung
Ngũ gia bì cùng tang ký sinh đều là thuốc trừ phong thấp, bổ can thận, cường gân cốt.
– Ngũ gia bì
Ngũ gia bì có vị cay, đắng; tính ôn.
+ Vị cay hăng có tác dụng hành khí tán huyết.
+ Tính ôn thì trừ hàn, hoạt huyết; táo thấp, kiện tỳ thống huyết. Cho nên trừ được ứ. Vị này đắng nên vào tâm kinh, nên trừ được âm tâm hàn. Thấp được ánh mặt trời chiếu ( tâm dương phổ chiếu), quân chủ (tâm) được chiếu thì sáng suốt, cho nên 12 bộ quan đều yên ổn, nhân thế lại có tác dụng làm cho tâm khỏe, bổ hư.
– Tang kí sinh
+ Tang ký sinh vị cam, tính bình, chất nhuận, dùng để dưỡng huyết, nhuận cân, hòa doanh, làm hết phong (tức phong) lại còn khả năng an thai nữa.
* Chủ trị
1. Ngũ gia bì trị phong hàn thấp, tý
Tang ký sinh chủ trị huyết hư cân cốt suy nhược.
Ngũ gia bì và tang ký sinh đều có công dụng trừ phong thấp tý thống. Nhưng xét bên trong, ngũ da bì khu phong thảng thấp lực mạnh vả lại hóa được ứ. Đối với bệnh phong thấp; kinh lạc bị cản trở, gân cốt đau là nên dùng Ngũ gia bì. Như “Trần thị tồn sinh thử” : nên dùng vị này phối hợp với Mộc qua, Tùng tiết. Đối với trị phong thấp gáy đau cấp cho gân cốt thì rất có hiệu quả.
Tang ký sinh khu phong thấp có chậm hơn – nhưng lại hay dưỡng huyết nhuận cân. Đối với bệnh huyết hư, cân cốt mạch thất dưỡng lại nên dùng. Như “bị cấp thiên kim yếu phương” : Độc hoạt tang ký sinh thang gồm : Độc hoạt, Tang ký sinh, Đỗ trọng, Ngưu tất, Tế tân, Tần bông, Phục linh, Quế tâm. Phòng phong, Xuyên khung, Nhân sâm, Cam thảo, Đương quy, Thược dược, Can địa hoàng. Trị chứng can thận lưỡng khuy (thiếu thốn, không đầy đủ), khí huyết bất túc, lưng gối đau nhức. Các khớp xương co duỗi khó khăn, hoặc mê man các chứng.
2. Ngũ da bì chủ chữa hư lao
Tang ký sinh chữa trứng phong
Ngũ gia bì cường tâm, bổ hư. Cho nên mọi bệnh hư lao, bất túc đều dùng vị thuốc này. Như “Phục phương” Bắc ngũ gia bì thang: gồm có Bắc ngũ da bì, Đẳng sâm, Thái tử sâm, Phục linh, Trạch tả, Sa tiền tử, Chư linh. Trị chứng xung huyết, tính tâm lực suy kiệt tim suy không chế trong khoảng 3 đến 9 ngày thì chuyển mạch tốt.
“Bị cấp thiên kim yếu phương” – ngũ gia bì, câu kỷ tử, trị hư lao bất túc.
Tang ký sinh dưỡng huyết, nhuận cân, dưỡng can, tức phong cho nên dùng chữa can thận bất túc. Can dương thiên lệch quá sinh chóng mặt, hoặc trúng phong bán thân bất toại. Như “Loại bệnh chứng trị tân nghĩa” Thiên ma câu đằng ẩm gồm: Thiên ma, Câu đằng, Thạch quyết minh, Sơn chi, Hoàng cầm, Xuyên ngưu tất, Đỗ trọng, Ích mẫu thảo, Tang ký sinh, Dạ giao đằng, Chu phục thần. Trị can phong thượng nhiễu, đau nhức, chóng mặt.
3. Ngũ gia bì trị thủy thũng
Tang ký sinh an thai, chỉ lậu
Ngũ gia bì tính ôn, thông thủy nên dùng chữa thủy thũng, phần nhiều phối hợp dùng cùng Tần bì, Phục linh bì, Sinh khương bì, Đại phúc bì như bài ngũ gia bì ẩm.
Tang ký sinh an thai, chỉ lậu. Như “Thanh huệ phương” chữa bệnh người có mang bị động thai không tin, tim, bụng đau như dùi đâm, dùng Tang ký sinh, Ngải diệp đun nước sắc uống.
“Ngoại đài bí yếu” có bài An thai ký sinh thang gồm các vị Tang ký sinh, Bạch truật, Phục linh, Trích cam thảo để chữa người có mang động thai ra huyết.
* Đặc thù sử dụng khác nhau
“Toàn ấu tâm giám” chữa trẻ con 3 tuổi không đi được. Dùng bài này thì đi được. Ngũ da bì 5 đồng, ngưu tất, mộc qua mỗi vị một đồng rưỡi, tán nhỏ, mỗi lần cho uống 5 phân dùng nước cơm hòa với 2 đến 3 giọt nước trắng cho uống. Lâm sàng báo rằng: Tang ký sinh trị bệnh đau tim, tim đau như vặn.
Dùng tang ký sinh chế thành tễ, mỗi bao khoảng từ 1 đến 3 lạng uống hai lần, mỗi lần nửa gói. Một số ít bệnh uống mỗi lần một gói. Xem xét 54 ca, kết quả chứng tim đau được cải thiện, rõ ràng có hiệu quả, đạt 76% . Tang ký sinh nấu cao, bôi vào những chỗ đau trị được bệnh rét quá da thịt sưng lên.