BÁN HẠ
Bộ phận dùng: thân rễ chọn củ nhỏ cây bán hạ
Bào chế:
+ Cho bán hạ vào nước ngâm mỗi ngày thay nước 2 lần để giữ cho nước trong sạch. Sau khi vớt ra cho bán hạ cùng gừng vào chõ để hấp chín. Phơi khô rồi chọn bỏ bã gừng, giã nát để sử dụng.
+ Chọn những củ bán hạ to cho vào nước ngâm . Sau đó vớt ra rải đều từng lớp gừng sống, phèn chua ở trong cóng hoặc vại rồi đổ nước vào ngâm ngập để nước gừng và phèn chua ngấm vào trong ruột củ bấn hạ. Sau đó vớt bán hạ ra phơi khô, thái phiến hoặc giã nát dùng
– Tính vị quy kính: ấm, cay có độc, quy kinh, tỳ, vị, phế
– Tác dụng; táo thấp hóa đàm, giáng nghịch chỉ ẩm, tiêu bĩ tán kết, dùng ngoài để tiêu sưng nề giảm đau
-Chỉ định:
+ Điều trị đàm thấp trở trệ gây ho , khí nghịch đờm nhiều mà đặc thì dùng cùng với trần bì
+ Điều trị đàm thấp gây chóng mặt thì thường dùng cùng với thiên ma, bạch truật ( Bán hạ bạch truật thiên ma thang )
+ Điều trị vị khí thượng nghịch gây nôn thường dùng cùng với sinh khương ( Tiểu bán hạ thang)
+ Điều trị vị nhiệt gây nôn thì thường dùng cùng thạch hộc, mạch môn, nếu phụ nữ có thai mà gây nôn, tuy có thuyết cho là cấm kị dùng, nhưng cũng có thể dùng cùng thuốc an thai
– Gần đây Trung Quốc đã chế thành dịch tiêm để chữa các loại buồn nôn:
+ Điều trị các chứng như bụng đầy trướng, thấp nhiệt trở trệ thường phối với can khương, hoàng liên, hoàng cầm để khai bĩ tán kết
+ Điều trị chứng đàm nhiệt kết hung thì phối với: qua lâu, hoàng liên
+ Điều trị chứng mai hạch khí, khí uất đàm ngưng thì thường dùng với tô tử, hậu phác, phục linh để hóa đàm tán kết
– Gần đây lâm sàng còn dùng bán hạ dạng tươi nghiền bột dùng ngoài để điều trị các chứng viêm loét cổ tử cung; có thể phối với thiên nam tinh nghiền bột làm viên hòa để điều trị cơn đau thắt ngực, có tác dụng cải thiện sóng S-T trên điện tim; có thể phối với xương bồ nghiện bột nhỏ vào mũi để điều trị nhịp nhanh trên thất
– Liều: 3-10g/ ngày
-Chú ý: phải chế trước khi dùng, thận trọng với khí huyết, âm hư..
-Tác dụng dược lý: có tác dụng trấn tĩnh các trung khu gây ho, giãn khí quản, giảm tiết ở khí quản, do đó tác dụng tiêu đàm. Trên thỏ thực nghiệm thấy có tác dụng giảm áp lực nội nhãn.