NHỤC QUẾ (肉桂)


Chủ dụng:
+ Cứu được khí nguyên dương đã lạnh lâu ngày
+ Ấm cho chứng tỳ vị hư hàn
+ Ức chế Can tà, thông lợi phế khí, bổ chứng ngũ lao, trị chứng thất thương, cứng gân xương, mạnh sinh dục, dưỡng tâm thần, thông huyết mạch, chữa đau bụng, bồn đôn, sán khí, chấm dứt chứng hư phiền, thu liễm chứng hư hãn, nuôi tinh tủy, ấm lưng gối, chữa tê thấp, ho đờm, nhọt trong mũi,sáng mắt, điều hòa nhan sắc, tuyên thông khắp các kinh mạch. Khí của nó rất nồng hậu có thể bổ sự bất túc của Mệnh môn chân hỏa trong thận, thúc độc ung nhọt, đậu mùa, lại có khả năng dẫn huyết làm mủ, dùng làm thuốc thôi sinh chỉ trong chốc lát, kiến hiệu như dùng bàn tay đẩy thai xuống.

+ Dùng cùng Nhân sâm, Mạch môn, Cam thảo thì có khả năng điều hòa tỳ vị
+ Dùng cùng Sài hồ, can địa hoàng thì điều hòa được phần vinh, ngăn ngừa được chứng ói mửa

+ Nhục quế vị cay ngọt mà khí cay thơm xông bốc, thăng giáng được, đi ngang được, đi thẳng được, ra ngoài được, vào trong được, bổ được, tả được, thông sướng các kinh, cổ vũ khí huyết, cho nên công hiệu tuy nhanh nhưng tính nó chuyên chú chạy và tiết ra, mà sức ôn trung cứu phần lý không thể kéo dài; không khỏi có chỗ tiến nhanh, thoái cũng nhanh. Là thuốc của phần vinh vệ khí huyết hậu thiên
+ Còn như phụ tử khí vị rất cay, hơi có cả ngọt và đắng, khí hậu, vị bạc giáng xuống nhiều đưa lên ít, từ trên đi thẳng xuống, không chạy mà giữ lại, có công năng cứu vãn phần lý, hồi phục dương khí, có sức dẫn hỏa về nguyên chỗ, có khả năng làm ấm kinh lạc. Là vị thuốc của chân âm chân dương Tiên thiên



———————


