THẠCH QUYẾT MINH CÙNG THẢO QUYẾT MINH
Công hiệu khác nhau
Thạch quyết minh thanh can, minh mục, cùng với quyết minh tử công dụng như nhau. Những thạch quyết minh tính vị mặn, bình, chất nặng, chủ đưa xuống, hay bình can, thông lâm, nhuyễn kiên (làm mềm chỗ rắn). Thảo quyết minh, ngọt, đắng, mặn, hàn, lực bạc, khí phù khi thăng khi giáng, đã bình can giáng hỏa, lại nhuận tràng thông tiện cho nên tán được phong nhiệt.
Chủ trị khác nhau
1. Thạch quyết minh chủ trị can hỏa, thiên về chữa mắt, có nhử
Thảo quyết minh chủ trị hư thực phức tạp làm cho mắt mờ tối
Thạch quyết minh, câu kỷ tử, mộc tặc, kinh giới, tang diệp cốc tinh thảo, cam thảo, kim phất thảo, xà thoái (xác rán), thương truật, bạch cúc hoa. Trị bệnh đau mắt có màng.
“Nhãn khoa long mộc luận” Bài thiên lý quang thang gồm thiên lý quang, hỏa kim sa, cam thảo, cúc hoa. Trị bệnh sợ mặt trời, sợ sáng.
Thảo quyết minh cũng trị can nhiệt sinh mắt đỏ, đau mắt có nhử, thường cùng thạch quyết minh phối hợp cùng dùng. Thảo quyết minh kiêm có bổ ích cho thận âm, lại còn dùng chữa chứng hư thực phức tạp làm cho mắt mờ tối lại.
2. Thạch quyết minh chủ trị dương cang (dương thịnh) làm nhức đầu, chóng mặt.
Thảo quyết minh chủ trị chứng hư thực hiệp tập sinh nhức đầu. Thạch quyết minh chất nặng, trầm giáng, tính đi xuống. Bình can thích ứng dùng cho bệnh dương thịnh quá làm cho nhức đầu chóng mặt. Như bài Linh dương giác thang có linh dương giác, quy bản, sinh thạch quyết minh, sinh Đại hoàng, mẫu đơn bì, hạ khô thảo, cúc hoa, bạch thược dược, sài hồ, bạc hà, thuyền thoái, đại táo. Trị chứng can bế thượng thăng đầu nhức như búa bổ, gân mạch hình như bị kéo rứt ra, đau. “Sơn đồng trung thảo dược thủ sách” trị chóng mặt, dùng thạch quyết minh, cúc hoa, câu kỷ tử tang diệp, sắc uống.
Thảo quyết minh vừa bổ, vừa tả, bình can tiết nhiệt kiêm ích âm. Cho nên không những dùng chữa phong nhiệt sinh ra bệnh nhức đầu chóng mặt rất hay, mà còn dùng chữa chứng hư thực hiếp tạp làm cho nhức đầu chóng mặt.
3. Thạch quyết minh thông lâm
Thảo quyết minh trị tiện bí.
Thạch quyết minh vị mặn, khí hòa, vào hai kinh can thận để trừ nhiệt, nhuyễn.
Nhiệt ở can hết thì sẽ tiết được, ứ trọc cũng tiêu, thùy đạo thông; nhiệt ở thận hết thi khí hóa, mở đóng thuận lợi. Bởi bệnh lâm (lậu) do sa thạch kết lại thành hình gây bệnh bệnh sỏi mật, đái ra sỏi.Thạch quyết minh có khả năng làm cho hòn sỏi mềm ra và tiêu đi. Bởi thế người ta nói rằng thạch quyết minh chữa được ngũ lâm. Như “Phổ tế phương” bài Thông ngũ lâm dùng thạch quyết minh tán dùng nước chín uống thuốc. “Quảng đông Y dược tư liệu” bài Thạch kim thang gồm thạch quyết minh, lụa mề gà, phối hợp với xuyên sơn giáp, vương bất lưu hành, lộ lộ thống, tiểu hồi hương. Trị bệnh tiểu tiện bế kết thành sỏi đá có hiệu lực rất mạnh.
Thảo quyết minh thông đại tiện, chữa bệnh tiện bí thành tập quán.
4. Thạch quyết minh tuế phong (trừ hết phong im gió)
Thảo quyết minh trị cam
Thạch quyết minh thanh can, tức phong, dùng chữa can nhiệt động phong, hoặc dương thịnh quá cũng động phong. Như “Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa”. Bài thiên ma câu đằng ẩm gồm thiên ma câu đằng, sinh thạch quyết, chi tử, hoàng xuyên, ngưu tất, đỗ trọng, ích mẫu thảo, tang ký sinh, dạ giao đằng, chu phục thần. Trị dương cang đông phong, đau dầu, chóng mặt, bán thân bất toại.
Trung y tạp chí (1965) đã giới thiệu 2 kỳ trị bệnh hung giật huyết thần hôn (bụng chướng nước làm cho máu ứ gây bệnh thần chí mê man) mặt đỏ, khó thở, đờm nhiều kêu óc ách, cấm khẩu, bên hữu chi thể bị tê liệt, đại tiểu tiện bí , lưỡi đỏ như giáng cầu vồng,
mạch huyền, nhỏ, xác, khẩn kíp dùng ngay sương bồ, uất kim, thiên trúc hoàng sinh thạch cao, sinh dã thạch (đốt đỏ), sinh thạch quyết, song câu đằng, ngưu tất. Những chứng hung, can nhiệt động phong thường phải dùng đến thạch quyết minh, thảo quyết minh tả nhiệt thông tiện, kiêm bổ hư, có thể dùng chữa bệnh cam của trẻ con. Như “Giang tây thảo dược” dùng thảo quyết minh nghiền nhỏ, gan gà một bộ giã nát cho một ít rượu cẩm dàn ra thành bánh, đem nướng chín đế chữa.