PHỤ TỬ CÙNG NHỤC QUẾ

PHỤ TỬ ( 附子) CÙNG NHỤC QUẾ (肉桂)
Công hiệu khác nhau
Phụ tử rất cay, rất nhiệt, tính thuần dương, mạnh mẽ. Khí vị đều phong phú, công dụng thiên về điều trị bên trong, dùng ấm chân tâm dương, bổ tỳ dương, ấm can dương, bổ mệnh môn hỏa hồi dương cứu nghịch, tán hàn, trừ thấp, khỏi đau, có khả năng chạy
hết 12 kinh lại phá được tích tụ kiên cố (bệnh tích).
Nhục quế, cay, ngọt nhiệt, khi vị thuần dương, đưa lên trên tán được biểu, tán phong hàn, thông doanh vệ, tính cũng hay vào bên trong, sở trường ôn trung, bổ dương, tán hàn chỉ thống dẫn hỏa quy nguyên, ôn kinh lạc, hết đau.
Chủ trị khác nhau
1. Phụ tử chữa bệnh dương suy sắp chết
Nhục quế thích ứng chữa tỳ thận dương hư
Phụ tử và nhục quế đều có công dụng chữa tỳ thận dương hư. Nhưng phụ tử là thuốc chủ yếu hồi dương cứu thoát. Nếu bệnh dương hư, sắp chết, không có phụ tử không cứu được. Nếu phối hợp với nhân sâm thì bệnh càng mau được công hiệu. Như “Hiệu trú phục nhân hương phương” có bài sâm phụ thang gồm nhân sâm, phụ tử gia khương, táo, sắc nước uống từ từ để chữa bệnh chân tay đã quyết lạnh, mồ hôi ra nhiều, thở nhẹ và yếu mạch nhỏ gần tuyệt.
Nhục quế dùng hồi dương cứu nghịch thì lực không bằng phụ tử nhưng lại có khả năng ôn tỳ noãn thận, dẫn hỏa quy nguyên – Thích nghi cùng cho tỳ thận dương hư đã gây ra bệnh bụng lạnh tiết tả lâu ngày, hoặc tiểu tiện không lợi, chữa được phù thũng sưng đau như bài Quế phụ lý trung hoàn chữa bụng lạnh đi ỉa lâu ngày: Bài Tế sinh thận khí hoàn, chữa bệnh thủy thũng đều phải dùng nhục quế cả.
2. Phụ tử chủ trị hàn quyết
Nhục quế chủ trị tâm phúc lãnh thống
Trong bụng khí lạnh quá thịnh gây nên lãnh quyết (giá lạnh chân tay). Phụ tử ôn trung, bổ dương, hành kinh tán thấp rất mãnh liệt, là thuốc yếu dược chữa hàn quyết.
Như “Thương hàn luận” bài Thông mạch tứ nghịch thang trị bệnh ở thiếu âm hạ lị thanh cốc trong lạnh ngoài nóng, chân tay quyết lãnh. Mạch nhỏ sắp chết.
“Tế sinh phương” có bài hồi dương tán dùng phụ tử tán mạt, nước gừng dùng rượu điều phục để chữa bệnh âm độc thương hàn, mặt xanh, chân tay quyết lạnh, bụng đau, thân thể lạnh toát, nhất thiết là bị lãnh khí.
Nhục quế dùng bổ dương, tán hàn thì lực không bàng phụ tử mà lại thích nghi dùng cho vị hàn, tỳ lãnh, sinh ra tâm phúc lạnh đau các chứng. Như “Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc” có bài Quế hương tán gồm thảo đậu khấu, cao lương khương, bạch truật, sa nhân, trích cam thảo, ổi khương, hậu phác, đại táo nhục, thanh bì, hà tử, nhục quế để chứa bệnh tỳ bị lạnh, bụng đau lâu ngày. “Tam nhân cực nhất bệnh chính phương luận” có bài Quế hương hoàn gồm nhục quế, sạ hương trị bệnh ăn nhiều thành tích trệ, không lúc nào đại tiểu tiện được thông lợi – trong bụng rắn đau.
“Thánh huệ phương” trị cừu chủng tâm thống, bị càn tử không thông sinh ra phiền muộn, buồn bã. Phải dùng quế tâm nấu với rượu, bỏ bã uống nóng.
3. Phụ tử trị phong hàn thấp tý
Nhục quế dùng cho huyết hàn thống kinh
Phụ tử tán hàn, trừ thấp chữa đau rất mạnh. Chữa phong hàn gây thấp, tê liệt rất hay . Như “Thương hàn luận” bài Cam thảo phụ tử thang gồm cam thảo, phụ tử, bạch truật, quế chi trị bệnh phong thấp cùng hoành hành tranh chấp nhau, các khớp xương tê buốt không co duỗi được toàn thân đau, ra mồ hôi. khí đoản, tiểu tiện không lợi, sợ gió, giả mình hơi phù.
“Thương hàn luận” Bài phụ tử thang gồm phụ tử phục linh, nhân sâm, bạch truật, thược dược, trị bệnh ở thiếu âm, thân thế đau đớn, chân tay lạnh, khớp xương đau, mạch trầm.
Nhục quế thông huyết mạch, hòa kinh chỉ thống, thích ứng với bệnh huyết hàn, kinh thống, hoặc kinh bế, phúc thống. Như “Hiệu phú phụ mân lương phương” có bài ôn kinh thang gồm đương quy, xuyên khung, thược dược, nhục quế, nga truật, mẫu đơn bì, nhân
sâm, ngưu tất, trích cam thảo, trị bệnh huyết hải hư hàn kinh nguyệt không đều, khí huyết ngưng trệ, dưới rốn luôn luôn đau, mạch trầm, khẩn.
4. Phụ tử chủ trị bệnh tích tụ
Nhục quế chữa khí bốc lên sinh khái nghịch (ho sặc).
Phụ tử phá được tích tụ. Như “Thánh tế tổng lục” bài Dụng đương quy tiễn hoàn gồm có đương quy, phụ tử, một dược,
huyết kiệt, vũ dư lương, điên chỗ sách, nạo sa (chất amoniac). Chữa bệnh phụ nhấn huyết tích rốn đau, bụng đầy, buồn bã, tứ chi buồn đau, miệng đắng, lưỡi khô, ăn uống kém, gầy gò. “Lịch đại danh phương trú thích” bài Miết giáp hoàn gồm có phụ tử, tam lăng, can tất, mộc hương, đại hoàng, ngô thù du, trị bệnh bĩ khí. Vị quản kết như đồ gốm chưa nung.
Tích lâu ngày không tan được bụng và sườn luôn luôn đau nhức – Nhục quế chủ khí đi lên chữa khái nghịch. Như “Thánh huệ phương” trị khái thấu thượng khí, nói không ra tiếng, tâm phiền, rối loạn tức thì phải dùng quế tâm, hạnh nhân, can khương, đại táo hoàn tễ. Không kể lúc nào lấy một hoàn ngậm vào miệng nhẹ nhàng cho ra nước dãi. “Hòa tễ cục phương” bài Bị cấp ngũ tấu hoàn gồm nhục quế, can khương tạo ra các vị bằng nhau, lấy một viên hằng hột ngô để chữa các chứng hen
Sử dụng đặc thù khác nhau
“Kim quỹ yếu lược” bài đấu phong ma án (trị mộc đầu trúng phong) chữa bệnh gội đầu bị trúng phong biểu hiện đầu và mặt ra nhiều mồ hôi, sợ gió. Trước đó một ngày đầu nhức nhiều. Dùng một củ phụ tử to đem nướng và một ít muối ăn tán nhỏ, dùng độ một thìa to sát vào thóp, khiến cho thuốc ngấm vào, hoặc tẩm dầu bôi vào cũng được, một ngày làm ba lần.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *